Đây là khẳng định của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn khi trả lời phỏng vấn báo chí nhân dịp cuối năm 2022.
Xin Bộ trưởng cho biết những điểm sáng trong công tác của ngành ngoại giao trong năm 2022?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Trong bối cảnh phức tạp, nhiều biến động của tình hình thế giới năm 2022, dưới sự chỉ đạo trực tiếp, sâu sát của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội, ngành ngoại giao đã bám sát đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, kết quả của Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất, triển khai kịp thời, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm với các giải pháp cụ thể nhằm đóng góp vào nỗ lực thực hiện tốt ba nhiệm vụ cơ bản là bảo đảm mục tiêu an ninh, phát triển và nâng cao vị thế của đất nước.
Chúng ta đã phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội, ngoại giao nhân dân và các hoạt động đối ngoại của các ban, bộ, ngành, địa phương để từ đó phát huy sức mạnh của toàn bộ hệ thống chính trị.
Có thể nêu một số đóng góp nổi bật của ngành ngoại giao trong năm 2022 như sau:
Đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế-xã hội, phục hồi kinh tế của đất nước sau đại dịch COVID-19 với phương châm "lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ". Trên tinh thần Chỉ thị 15-CT/TW của Ban Bí thư và bám sát trọng tâm điều hành kinh tế-xã hội của Chính phủ, Bộ Ngoại giao, cùng với sự hỗ trợ của các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp, đã chủ động, kịp thời chuyển trạng thái ngoại giao kinh tế từ hỗ trợ phòng chống dịch bệnh sang hỗ trợ thích ứng an toàn, thu hút nguồn lực từ bên ngoài phục vụ phục hồi tăng trưởng trong nước và đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước. Chúng ta đã quản lý tốt biên giới trên bộ, trên biển, giữ gìn đường biên hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển đồng thời tăng cường đàm phán, đối thoại giải quyết tranh chấp, tăng cường hợp tác biển, củng cố tin cậy với các nước; kịp thời trao đổi, xử lý các vi phạm trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tại các diễn đàn đa phương, Việt Nam chủ động có những phát biểu quan trọng để củng cố sự quan tâm của các nước, khẳng định thượng tôn pháp luật trên biển, UNCLOS 1982.
Về đối ngoại song phương, tiếp tục tăng cường, củng cố quan hệ với các nước lớn, các nước láng giềng, các đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống. Chúng ta đã tiến hành nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, trong đó, nhiều hoạt động mang tầm chiến lược và có ý nghĩa lịch sử, nhất là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ngoài ra, ta đã nâng cấp quan hệ với Hàn Quốc lên "Đối tác chiến lược toàn diện" nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Hàn Quốc của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, đưa tổng số nước có quan hệ "Đối tác chiến lược toàn diện" với Việt Nam lên 4 nước; thiết lập quan hệ ngoại giao với quần đảo Cook, đưa tổng số nước có quan hệ ngoại giao lên 190 nước.
Về đa phương, thể hiện tốt vai trò thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, ghi nhiều dấu ấn quan trọng với việc được bầu làm Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc khóa 77; trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025; trúng cử Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 về bảo vệ Di sản Văn hóa phi vật thể của UNESCO nhiệm kỳ 2022 - 2026.
Triển khai linh hoạt, kịp thời, hiệu quả hoạt động ngoại giao vaccine, giúp Việt Nam có độ bao phủ vaccine cao nhất thế giới. Đây là kết tinh tổng lực, quyết liệt từ các cấp, các ngành và từ trong đến ngoài nước.
Làm tốt công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân. Thực hiện hiệu quả Kết luận 12 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới, tích cực vận động thu hút nguồn lực tri thức, kinh tế của kiều bào cho phát triển đất nước (kiều hối đến hết tháng 10 đạt 9,5 tỷ USD và dự kiến sẽ tăng cao dịp Tết Nguyên đán). Công tác bảo hộ công dân được triển khai thường xuyên, nhanh chóng, hiệu quả. Trong năm 2022, chúng ta đã thực hiện hành bảo hộ cho khoảng 21.500 trường hợp công dân Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới. Trong bối cảnh xung đột Nga - Ukraine, chúng ta đã cơ bản hoàn tất việc sơ tán an toàn khoảng 6.000 công dân, kiều bào khỏi khu vực chiến sự; phối hợp với các cơ quan chức năng trong nước và nước sở tại đưa 1.400 người lao động Việt Nam bị lừa đảo sang làm việc bất hợp pháp ở Campuchia về nước; tiến hành các biện pháp bảo hộ công dân và đưa 700 ngư dân Việt Nam về nước.
Bên cạnh đó, đổi mới mạnh mẽ công tác thông tin đối ngoại và ngoại giao văn hóa cả về nội dung và hình thức, tận dụng sức mạnh của công nghệ số; góp phần quảng bá rộng rãi hình ảnh đất nước, con người Việt Nam đến bạn bè quốc tế và vận động quốc tế công nhận những di sản văn hóa giá trị của Việt Nam, nâng cao sức mạnh mềm quốc gia. Trong năm 2022, Việt Nam đã có thêm 4 di sản được UNESCO ghi danh (gồm Di sản Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh, Bia ma nhai tại Danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, Thành phố học tập Cao Lãnh và Nghệ thuật làm gốm của người Chăm). Nỗ lực của đội ngũ làm công tác thông tin đối ngoại đã góp phần tạo dư luận đồng thuận cả trong nước và quốc tế, thu hút nguồn lực phát triển, đồng thời kịp thời phản bác các thông tin sai lệch về Việt Nam, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Năm 2022 là một năm đầy biến động. Thế giới vừa bước ra khỏi đại dịch với kỳ vọng có nhiều cơ hội phục hồi kinh tế thì cuộc khủng hoảng tại Ukraine bất ngờ xảy ra, đặt ra nhiều thách thức đến kinh tế, chính trị thế giới. Ngành ngoại giao đã chủ động dự báo, thay đổi và thích ứng như thế nào trước bối cảnh này thưa Bộ trưởng?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Năm 2022, thế giới có những biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp và chưa từng có tiền lệ. Trong nước, đây là năm thứ 2 triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đặc biệt là sau khi chính thức mở cửa trở lại từ tháng 3/2022, chúng ta tiếp tục tập trung kiểm soát tốt dịch COVID-19, giữ ổn định chính trị - xã hội và phục hồi kinh tế.
Trong bối cảnh đó, với ngành ngoại giao, việc phát huy năng lực dự báo, tham mưu và khả năng "linh hoạt, chủ động, thích ứng" với tình hình mới trở nên cần thiết hơn bao giờ hết và trên thực tế, công tác này đã được Bộ Ngoại giao tập trung, nỗ lực thực hiện tốt.
Công tác dự báo, tham mưu được đẩy mạnh, thể hiện ở các điểm sau:
-Xác định rõ trọng tâm nghiên cứu dự báo, nhất là xu thế dịch bệnh COVID-19, chính sách mở cửa và phục hồi của các nước, các diễn biến trong quan hệ nước lớn, những xu hướng đa phương, liên kết mới và những vấn đề an ninh phi truyền thống để từ đó có những kiến nghị phù hợp với từng giai đoạn cụ thể.
-Phát huy tối đa vai trò "ăng-ten đối ngoại" của toàn bộ 94 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, với vai trò phân tích, dự báo từ sớm, từ xa ngay từ các địa bàn ngoài nước, từ tiếp xúc đối ngoại, phân tích động thái sở tại đến tham mưu chính sách, biện pháp.
-Phối hợp chặt chẽ với cơ quan tham mưu của các ban, bộ, ngành như Hội đồng Lý luận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng… cũng như tham khảo ý kiến các học giả, chuyên gia trong nước và quốc tế về kinh nghiệm, mô hình xử lý các vấn đề kinh tế, phát triển của các nước phục vụ chính sách điều hành kinh tế-xã hội của Chính phủ.
-Triển khai các công trình nghiên cứu với một đề tài cấp Nhà nước và 28 đề tài cấp Bộ về đối ngoại, trong đó có một đề tài trọng điểm cấp Bộ; chỉ đạo các đơn vị đẩy mạnh nghiên cứu, nhất là những những vấn đề nhạy cảm, những vấn đề có thể ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc.
Sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo, thích ứng, thể hiện ở những điểm sau:
-Linh hoạt, bắt nhịp kịp thời xu thế mở cửa trở lại của các nước để chủ động nối lại các hoạt động đối ngoại trực tiếp cả song phương và đa phương, góp phần đưa quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu, thực chất. Các hoạt động đối ngoại sôi động, nhất là đối ngoại cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội đã thể hiện sự chủ động, linh hoạt, thích ứng với tình hình mới. Chúng ta đã triển khai gần 70 hoạt động đối ngoại của lãnh đạo chủ chốt, trong đó có 34 hoạt động trực tiếp (gồm 15 đoàn thăm nước ngoài và 19 đoàn nước ngoài thăm Việt Nam); 36 hoạt động trực tuyến (gồm các cuộc hội đàm, điện đàm, hội nghị trực tuyến).
-Trước diễn biến của tình hình xung đột Nga-Ukraine, ngành ngoại giao chủ động phối hợp chặt chẽ, hiệp đồng tác chiến với các cơ quan liên quan, không để bị động, bất ngờ, kịp thời bảo đảm lợi ích của đất nước, bảo hộ công dân Việt Nam bị ảnh hưởng, đóng góp vào các nỗ lực quốc tế hỗ trợ cho người dân vùng xung đột, tìm hiểu, tham mưu để khắc phục, ứng phó với hệ lụy do xung đột gây ra.
-Kịp thời có bước chuyển linh hoạt nhiệm vụ trọng tâm từ ngoại giao vaccine sang ngoại giao phục vụ phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội để thích ứng với tình hình mới của đất nước.
Năm 2022 chứng kiến sự sôi động của những chuyến thăm song phương và tham dự hội nghị, diễn đàn đa phương của các lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam. Các hoạt động đối ngoại cấp cao trên thể hiện điều gì?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Năm 2022 đã chứng kiến sự sôi động trở lại của các hoạt động đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại được triển khai toàn diện trên tất cả các kênh Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ và Quốc hội đã tiến hành gần 70 hoạt động đối ngoại cấp cao cả song phương và đa phương, trực tiếp và trực tuyến, tiêu biểu là chuyến thăm chính thức Trung Quốc của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
Các hoạt động đối ngoại sôi động thể hiện sự chủ động, linh hoạt, thích ứng với tình hình mới. Một mặt, chúng ta vẫn tiến hành các hoạt động đối ngoại trực tuyến, mặt khác, đẩy mạnh gặp gỡ trực tiếp với lãnh đạo cấp cao các nước, các đối tác quốc tế.
Các cuộc tiếp xúc cấp cao với các nước, các đối tác đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ, sự tin cậy chính trị, tình cảm hữu nghị với các nước, các đối tác, đặc biệt là các nước láng giềng và các đối tác quan trọng của Việt Nam.
Các hoạt động đối ngoại đã truyền tải rộng rãi thông điệp về việc phục hồi nhanh chóng và phát triển về mọi mặt của Việt Nam, từ đó giúp thu hút các nguồn lực bên ngoài để phục vụ quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, tăng cường hợp tác thương mại, đầu tư, du lịch…
Lãnh đạo cấp cao Việt Nam cũng đã chủ động, tích cực tham gia các hội nghị, diễn đàn đa phương quan trọng trong năm như Tuần lễ Cấp cao APEC, Hội nghị Cấp cao ASEAN 40, 41, Hội nghị Cấp cao ASEAN - Hoa Kỳ, ASEAN - EU, Đại hội đồng AIPA, góp phần nâng tầm đối ngoại đa phương, chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, tiếp tục đóng góp cho công việc chung của khu vực và thế giới, khẳng định vị thế ngày càng cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các chuyến thăm cũng là dịp khẳng định mạnh mẽ chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chăm lo và coi cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không thể tách rời, một nguồn lực của cộng đồng dân tộc và nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.
Từ trọng tâm là ngoại giao y tế, ngoại giao vaccine trong hai năm 2020-2021, đến năm 2022, có thể thấy kinh tế đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm của đối ngoại. Xin Bộ trưởng phân tích rõ hơn sự thay đổi và thích ứng này?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Ngoại giao kinh tế luôn là một trụ cột quan trọng trong công tác của Bộ Ngoại giao. Trong năm 2022, dưới sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, đặc biệt là Thủ tướng Chính phủ, ngành Ngoại giao đã thể hiện sự chủ động, nhạy bén trong việc nhanh chóng chuyển trọng tâm từ ngoại giao vaccine sang ngoại giao kinh tế phục vụ phục hồi và phát triển kinh tế đất nước.
Công tác ngoại giao kinh tế luôn đồng hành với cả nước, tiếp tục được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ trung tâm, thường xuyên của toàn ngành cũng như của tất cả 94 cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, đóng góp vào thành tích tăng trưởng GDP 8% năm nay, thể hiện ở một số mặt như sau:
Trước hết, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đại hội XIII về xây dựng ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ. Bộ Ngoại giao đã tham mưu, trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 15-CT/TW về ngoại giao kinh tế. Đây là định hướng quan trọng, đưa ngoại giao kinh tế thực sự trở thành nhiệm vụ cơ bản, trung tâm của cả hệ thống chính trị, tạo xung lực mới để triển khai hiệu quả hơn công tác ngoại giao kinh tế đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới.
Thứ hai, ngành ngoại giao tiếp tục đóng góp làm sâu sắc quan hệ với các nước, đặc biệt quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư. Hợp tác kinh tế trở thành nội dung trung tâm trong tất cả các hoạt động đối ngoại Cấp cao và các cấp. Trong tất cả 62 hoạt động đối ngoại cấp cao, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội đều chỉ đạo và trực tiếp thúc đẩy hết sức mình các nội dung kinh tế. Các hoạt động đối ngoại cấp cao đều đạt những kết quả, thỏa thuận quan trọng, thiết thực về kinh tế với khoảng 150 văn kiện, thoả thuận hợp tác kinh tế được ký kết.
Thứ ba, ngành ngoại giao tiếp tục đóng góp đẩy mạnh hội nhập và liên kết kinh tế quốc tế. Chúng ta đã kịp thời, nhanh nhạy tranh thủ thu hút nguồn lực bên ngoài phục vụ phát triển, nhất là các nguồn tài chính xanh, đầu tư cho chuyển đổi năng lượng và các ngành công nghệ cao… (điển hình là Nhóm G7, châu Âu và Việt Nam đã có Tuyên bố chính trị về quan hệ "Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng" (JETP), huy động nguồn đầu tư ban đầu trị giá 15,5 tỷ USD; LEGO đã khởi công nhà máy trung hòa carbon đầu tiên có vốn đầu tư 1,3 tỷ USD, Samsung khánh thành Trung tâm R&D tại Hà Nội trị giá 220 triệu USD). Ngành ngoại giao cũng hỗ trợ, thúc đẩy triển khai hiệu quả 15 FTA đã ký kết; tham mưu, kiến nghị để Việt Nam kịp thời tham gia các sáng kiến liên kết kinh tế quốc tế nhằm tranh thủ các nguồn lực cho phát triển.
Thứ tư, bước đầu triển khai hiệu quả chủ trương lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã tích cực đồng hành, kết nối, hỗ trợ các địa phương, doanh nghiệp thúc đẩy xuất khẩu, nhất là các mặt hàng nông sản, thu hút đầu tư và mở rộng hợp tác kinh tế. Năm 2022, Bộ Ngoại giao đã tổ chức khoảng hơn 50 đoàn làm việc với hơn 25 địa phương, tổ chức 70 hoạt động kết nối các đối tác cho địa phương, hỗ trợ ký kết hơn 40 văn bản hợp tác quốc tế; được các địa phương đánh giá cao.
Thứ năm, Bộ Ngoại giao và các cơ quan đại diện tiếp tục chủ động, nhạy bén trong công tác nghiên cứu, tham mưu phục vụ điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ, trên cơ sở bám sát nhu cầu trong nước và các trọng tâm của Chính phủ. Đã có nhiều báo cáo có chất lượng về tình hình kinh tế thế giới và các vấn đề đang nổi lên tác động sâu sắc đến phát triển kinh tế đất nước, từ đó tham mưu, kiến nghị chính sách phù hợp của ta.
Xin Bộ trưởng chia sẻ phương hướng và biện pháp triển khai công tác ngoại giao kinh tế để đóng góp vào phát triển kinh tế-xã hội năm 2023, thực hiện các mục tiêu kinh tế mà Chính phủ đặt ra?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Để đóng góp thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước, trong năm 2023, Bộ Ngoại giao xác định triển khai 4 trọng tâm ngoại giao kinh tế như sau:
Một là, tiếp tục triển khai nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; tranh thủ và phát huy cao nhất thế và lực mới của đất nước; phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho phát triển đất nước và nâng cao vị thế, uy tín đất nước. Đẩy mạnh quán triệt sâu rộng và cụ thể hoá Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 10/8/2022 của Ban Bí thư và Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị sẽ được Chính phủ sớm ban hành.
Hai là, tiếp tục thúc đẩy, làm sâu sắc và gia tăng đan xen lợi ích của Việt Nam với các đối tác. Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội, trong đó, ưu tiên hàng đầu là thúc đẩy hợp tác kinh tế hiệu quả, thực chất. Thúc đẩy đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá chuỗi cung ứng. Thu hút đầu tư chất lượng cao và các nguồn lực phục vụ chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Thúc đẩy tháo gỡ những điểm nghẽn trong quan hệ kinh tế của ta với các đối tác chủ chốt. Tận dụng hiệu quả mạng lưới 15 FTA đang thực thi; tham gia chọn lọc các liên kết kinh tế quốc tế trên cơ sở phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, khả năng và điều kiện cụ thể của đất nước.
Ba là, chú trọng công tác nghiên cứu, tham mưu, nâng cao năng lực phân tích, dự báo chiến lược, cảnh báo phục vụ điều hành kinh tế - xã hội của Chính phủ. Bám sát tình hình, biến động của kinh tế thế giới, các điều chỉnh chiến lược, chinh sách và sáng kiến của các quốc gia để kiến nghị các đối sách, biện pháp ứng xử phù hợp.
Bốn là, đổi mới phương thức, tăng cường năng lực triển khai và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác ngoại giao kinh tế. Tăng cường phối hợp liên ngành, kiến nghị Chính phủ xem xét thành lập các tổ công tác về những vấn đề cụ thể, cấp bách khi cần thiết nhằm bảo đảm hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ theo chỉ đạo của Chính phủ.
Với tinh thần đó, trên cơ sở bám sát các chỉ đạo quyết liệt, sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, với phương châm triển khai"quyết liệt, mạnh dạn, đột phá, thực chất, hiệu quả, khai thác và tranh thủ mọi cơ hội cho phát triển đất nước", tôi tin tưởng công tác ngoại giao kinh tế sẽ tiếp tục phát huy mạnh mẽ tinh thần khẩn trương, quyết liệt của công tác ngoại giao vaccine để đóng góp thiết thực và hiệu quả hơn nữa cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước trong năm 2023, tạo nền tảng vững chắc hướng tới các mục tiêu và khát vọng phát triển đất nước đến năm 2030.
Xin Bộ trưởng cho biết những phương hướng trọng tâm của ngoại giao Việt Nam trong năm 2023 là gì và sẽ được triển khai như thế nào?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Bối cảnh tình hình kinh tế thế giới năm 2023 dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức hơn năm 2022. Trong nước, chúng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mục tiêu phát triển của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2021-2025 và cân bằng chiến lược giữa ổn định, tăng trưởng và xây dựng nền tảng để phát triển bứt phá.
Do đó, ngành ngoại giao sẽ tập trung vào triển khai 6 ưu tiên sau.
Một là, tiếp tục củng cố cục diện đối ngoại ổn định, hòa bình và thuận lợi để phát triển; đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng, nước lớn, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, bạn bè truyền thống và các đối tác quan trọng khác đi vào chiều sâu, thực chất, gia tăng tin cậy chính trị và đan xen lợi ích; đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương; tham gia tích cực vào ASEAN, Tiểu vùng Mekong, Liên Hợp Quốc; tranh thủ hiệu quả các sáng kiến phát triển, tích cực tham gia vào quá trình xây dựng các khuôn khổ luật lệ, tiêu chuẩn mới; thúc đẩy ngoại giao phục vụ chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, ứng phó biến đổi khí hậu…; ứng xử chủ động, linh hoạt, hiệu quả với các sáng kiến về liên kết mới ở khu vực, phù hợp với lợi ích, an ninh quốc gia của đất nước.
Hai là, góp phần vào duy trì ổn định vĩ mô và phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo có nguy cơ suy thoái. Đẩy mạnh công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển. Chủ động nắm bắt và tham mưu các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế; mở rộng thị trường xuất khẩu, từng bước đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, thị trường và đối tác nhập khẩu. Định vị Việt Nam trong chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu và chuyển đổi xanh để có các bước triển khai bài bản và chuẩn bị trong nước nhằm nắm bắt cơ hội và khai thác xu thế phát triển mới. Tranh thủ sự hỗ trợ của các nước trong quá trình xây dựng và tái cơ cấu ngành nông nghiệp bền vững, chuyển dịch chuỗi cung ứng, chuyển đổi số, chuyển đổi năng lượng; tận dụng hiệu quả các FTA đã ký kết, đặc biệt là CPTPP, EVFTA, RCEP.
Ba là, tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, nắm sát tình hình Biển Đông và biên giới trên bộ, vừa chủ động thúc đẩy hợp tác với các nước liên quan, vừa kịp thời tham mưu đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả các hành động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, quyền tài phán và các lợi ích chính đáng của Việt Nam; thúc đẩy đàm phán COC hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có UNCLOS 1982 và chủ động, linh hoạt và kịp thời trong đấu tranh nhằm phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc nhằm phá hoại tư tưởng, chia rẽ nội bộ, kích động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Bốn là, thúc đẩy nền ngoại giao hiện đại, toàn diện, trong đó tăng cường hiệu quả phối hợp giữa 3 trụ cột đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Quốc hội và đối ngoại nhân dân; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa tất cả các trụ cột, lực lượng làm công tác đối ngoại.
Năm là, phát huy vai trò của đối ngoại trong thúc đẩy bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược đáp ứng đúng và trúng yêu cầu của tình hình mới. Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, nhất là các vấn đề tác động trực tiếp, lâu dài đến an ninh và phát triển của đất nước. Thường xuyên theo dõi, nghiên cứu, nắm chắc và dự báo đúng tình hình để kịp thời có đối sách và giải pháp phù hợp. Đi vào triển khai các đề án, chiến lược lớn trong lĩnh vực đối ngoại, an ninh, quốc phòng, trong đó có Nghị quyết về những định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng, Chiến lược Đối ngoại Việt Nam đến năm 2030.
Sáu là, xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, bản lĩnh và trí tuệ, hiện đại, chuyên nghiệp về phong cách, phương pháp làm việc, có tinh thần đổi mới, sáng tạo. Tiếp tục đặc biệt coi trọng xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác cán bộ, trong đó có đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ ngoại giao, nhất là với cán bộ cấp chiến lược, lãnh đạo, quản lý; từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ chuyên gia có trình độ đạt tầm khu vực và quốc tế. Kiện toàn tổ chức, bộ máy ngành ngoại giao tinh gọn, khoa học, hợp lý và hiệu quả. Đẩy mạnh hiện đại hóa, chuyển đổi số ngành ngoại giao.
Trước những thách thức, chính sách đối ngoại của đất nước càng thể hiện bản sắc rõ ràng của ngoại giao cây tre Việt Nam, "dĩ bất biến ứng vạn biến", Bộ trưởng có bình luận gì về điều này?
Bộ trưởng Bùi Thanh Sơn: Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, chưa từng có kể từ Chiến tranh Lạnh đến nay. Điều này đặt ra cơ hội, nhưng đồng thời cả những thách thức lớn đối với môi trường đối ngoại Việt Nam. Trước những biến chuyển lớn của thời đại, đối ngoại Việt Nam càng thể hiện rõ ràng bản sắc để bảo vệ vững chắc và phát huy mạnh mẽ lợi ích của đất nước.
Bản sắc ngoại giao Việt Nam có cội nguồn là những triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta xuyên suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Bản sắc đó được nâng lên một tầm cao mới bởi Chủ tịch Hồ Chí Minh - Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của nước Việt Nam hiện đại.
Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc lần thứ nhất năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đúc kết: Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cơ sở vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx - Lenin, kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hoá dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của Thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "Cây tre Việt Nam: Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển".
Gốc vững chính là truyền thống tự lực, tự cường, là lợi ích quốc gia-dân tộc, được dẫn dắt bởi nền tảng tư tưởng của Đảng. Thân chắc chính là bản lĩnh kiên cường trước mọi thử thách, khó khăn, là những cốt lõi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong thời kỳ Đổi mới đã được thực tiễn kiểm chứng và vun đắp hơn 36 năm qua. Cành uyển chuyển là ứng xử "dĩ bất biến, ứng vạn biến".
Tình hình càng phức tạp, thì càng kiên trì về nguyên tắc, càng linh hoạt về sách lược. Đối ngoại Việt Nam dựa vào cái bất biến là bản sắc đối ngoại, đường lối đối ngoại để ứng phó với cái vạn biến của thế giới, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lẽ phải, chính nghĩa, phù hợp với những giá trị chung của nhân loại, đóng góp vì một thế giới hòa bình, hợp tác, ổn định và phát triển. Đó cũng chính là vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước, như đã được khẳng định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Để làm được điều đó, ngành ngoại giao sẽ cần tiếp tục phấn đấu, nỗ lực hết mình, quyết tâm phát triền nền ngoại giao Việt Nam "vừa hồng vừa chuyên", trong sạch, vững mạnh, tiên phong, toàn diện, hiện đại, chủ động, thích ứng-để xứng đáng với sứ mệnh nặng nề nhưng hết sức vẻ vang mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó./.
Nguồn: baochinhphu.vn