Tin Tức
Thứ 7, Ngày 06/12/2014, 15:00
Tóm tắt lịch sử ngành Ngoại giao Việt Nam
Cỡ chữ: Font size: Giảm (A-) Mặc định (A) Tăng (A+)
06/12/2014
Tóm tắt lịch sử ngành Ngoại giao Việt Nam

 

Trụ sở Bộ Ngoại giao nước CHXHCN Việt Nam
(Số 1 phố Tôn Thất Đàm, quận Ba Đình, Hà Nội)

1. Khái quát lịch sử ngoại giao Việt Nam

Việt Nam có hàng nghìn năm lịch sử với một nền ngoại giao tinh tế và hiển hách, trừ một nghìn năm Bắc thuộc, trải qua các triều đại khác nhau từ Vua Hùng, An Dương Vương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn và thời đại Hồ Chí Minh. Nền ngoại giao mới Việt Nam ra đời cùng với việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, nay là nước CHXHCN Việt Nam. Lịch sử ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh có thể chia làm 5 giai đoạn chính.

- Giai đoạn 1945-1946: Đây là thời kỳ cực kỳ khó khăn của của đất nước nói chung và ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ đứng trước vô vàn thử thách (chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách trống rỗng, chưa được nước nào công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là 30 vạn thù trong, ngoài ra còn có giặc ngoài). Có thể nói nước ta trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã thực hiện những sách lược hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh hoạt: lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng Ba 1946 để đuổi Tưởng về nước, góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ.

- Giai đoạn 1947-1954: Ngoại giao phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị chủ động triển khai hoạt động quốc tế, tranh thủ đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới, đặc biệt là hình thành liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia chống kẻ thù chung; xây dựng quan hệ với Thái Lan, Miến Điện, Indonesia, Ấn Độ…Tranh thủ thuận lợi do thắng lợi của chiến dịch biên giới đưa lại, ngoại giao đã thành công thúc đẩy thế giới công nhận và thiết lập quan hệ ngoại với Việt nam. Đầu năm 1950, lần đầu tiên chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở châu Á, Đông Âu. Các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành chỗ dựa quan trọng cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân sự, Việt nam đã tham gia Hội nghị Genève 1954 về Đông Dương, buộc các nước lớn công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Đông Dương, giải phóng được miền Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.

- Giai đoạn 1954-1975: Ngoại giao phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược: Kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Ngoại giao đã trở thành mặt trận, đánh vào hậu phương quốc tế của Mỹ, mở rộng hậu phương quốc tế của Việt Nam, hình thành Mặt trận nhân dân thế giới rộng lớn, mà nòng cốt là Liên Xô, Trung Quốc, các nước Xã hội chủ nghĩa, các nước Đông dương ủng hộ Việt Nam chống Mỹ cứu nước. Đồng thời, ngoại giao đã phối hợp với chiến trường, đấu tranh chính trị, tiến hành đàm phán và ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh và lập lại hoà bình ở Việt Nam (27/1/1973). Hiệp định Paris là thắng lợi to lớn của ngoại giao Việt Nam, đã buộc Mỹ và các nước liên quan rủt quân khỏi Việt Nam, chấm dứt hoạt động chiến tranh, tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam. Đó là điều kiện vô cùng thuận lợi dẫn đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc.

- Giai đoạn 1975-1986: Đây là thời kỳ ngoại giao phục vụ khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh và bảo vệ Tổ quốc. Những năm đầu sau chiến tranh, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hàng chục nước, nhất là các nước tư bản chủ nghĩa, tranh thủ được sự giúp đỡ về vật chất của nhiều quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh. Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc (9/1977), tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế (6/1978), ký Hiệp ước hữu nghị và Hợp tác với Liên Xô (11/1978). Tuy nhiên, thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước không dài, Việt Nam đã buộc phải đưa quân vào Campuchia, giúp nhân dân Campuchia đập tan chế độ diệt chủng và bảo vệ an ninh, chủ quyền quốc gia. Khôi phục lại tình đoàn kết chiến đấu giữa ba nước Đông Dương. Đó là nguyên nhân trực tiếp (cái cớ) dẫn đến chiến tranh biên giới với Trung Quốc (2/1979) và việc Trung Quốc, các nước phương Tây, ASEAN bao vây, cô lập, cấm vận Việt Nam.

Giai đoạn 1986 đến nay: Với Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI (12/1986), Việt Nam đã khởi đầu công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đường lối, chính sách đối ngoại và hoạt động ngoại giao. Lợi ích cao nhất của dân tộc Việt Nam trong giai đoạn này là "giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội". Đó cũng là mục tiêu bao trùm của chính sách đối ngoại Việt Nam. Nghị quyết 13 của Bộ chính trị (5/19988) đã tạo ra bước ngoặt trong đường lối chính sách đối ngoại Việt Nam. Các Đại hội tiếp theo từ Đại hội VII(1991), Đại hội VIII (1996), Đại hội IX (2001) đến Đại hội X (2006) đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới đã từng bước đước bổ sung, hoàn chỉnh. Đó là đưòng lối đối ngoại "độc lập tự chủ, hoà bình , hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực" ( Văn kiện Đại hội X). Đại hội XI đã phát triển và bổ sung chính sách đối ngoại, không chỉ là  “độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;” (Văn kiện Đại hội XI) mà còn phải “nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI), năm 2011. Việc thực hiện đường lối chính sách đối ngoại trên đã và đang gặt hái được những thành công quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Với việc rút hoàn toàn quân đội khỏi Cămpuchia, vấn đề Campuchia được giải quyết, Việt Nam đã phá được bao vây, cấm vận và không ngừng mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa dạng hoá và đa phương hoá; bình thường hoá và từng bước xác lập khuôn khổ quan hệ ổn định lâu dài với tất cả các nước lớn, các nước công nghiệp phát triển (cho đến nay Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, có quan hệ kinh tế với hơn 220 thị trường nước ngoài và là thành viên của nhiều tổ chúc và diến đàn quốc tế như Liên hợp quốc (1977), Phong trào Không liên kết (1976), Tổ chức Pháp ngữ (1986), ASEAN (1995). Diễn đàn hợp tác Á-Âu ASEM (1996), Diền đàn hợp tác kinh tế khu vực châu Á- Thái Bình Dương APEC ,1998...); giải quyết ổn thoả nhiều tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo, giữ vững môi trường hoà bình; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, tranh thủ nhiều ODA, FDI, mở rộng thị trường ngoài nước; tăng cường ngoại giao đa phương. Các sự kiện lớn của ngoại giao Việt Nam trong những năm gần đây là : Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao VII tổ chức Pháp ngữ 1997), Hội nghị cấp cao ASEAN VII (1998), Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Á-ÂU V ( 2004), Hội nghị thượng đỉnh APEC 14 (2006) … Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương Thế giới WTO (11/2006) , Hoa Kỳ dành cho Việt Nam quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (11/2006). Vào ngày 16 tháng 10 năm 2007 Việt Nam đã được bầu làm một trong các thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc cho nhiệm kỳ 2008-2009. Năm 2010 Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đối ngoại nổi bật: (1) Việt Nam đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN: Với chủ đề “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn tới hành động”. (2) Chủ trì thành công Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) Đông Á. (3) Hoàng thành Thăng Long được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa thế giới. (4) Tổ chức thành công Hội thảo quốc tế Việt Nam – châu Phi lần thứ hai. Năm 2012, Việt Nam tổ chức thành công Diễn đàn Việt Nam – Mỹ La-tinh về Thương mại và Đầu tư.

Nguyên nhân cơ bản của những thành tựu đối ngoại là Việt Nam có đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam là bạn và đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.

Sự nghiệp đổi mới đang tiếp diễn. Mục tiêu của Việt Nam đến năm 2020 là cơ bản trở thành nước công nghiệp, hiện đại, là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2. Đặc điểm nổi bật của chính sách đối ngoại, ngoại giao Việt Nam

Chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh có những đặc điểm chính sau đây:

- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cách mạng Việt Nam, là con đường giải phóng đúng dắn phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội Việt Nam và xu thế thời đại.

Tư tưởng độc lập gắn liền với chủ nghĩa xã hội chỉ đạo nhận thức và hành động trong triển khai đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Việt Nam.

- Độc lập tự chủ, tự lực tự cường; đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế.

Độc lập tự chủ thể hiện trong nhận thức, trong quyết sách và thực hiện đường lối, chính sách. Độc lập tự chủ, đảm bảo lợi ích chính đáng của dân tộc là nguyên tắc và nhiện vụ hàng đầu của ngoại giao Việt Nam. Sự giúp đỡ hợp tác quốc tế là quan trọng.

Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, không có nghĩa là biệt lập với bên ngoài; ngược lại trên cơ sở độc lập tự chủ, cần phải mở rộng đoàn kết, hợp tác quốc tế, xử lý đúng đắn các vấn đề liên quan giữa dân tộc và thời đại, giữa Việt Nam và thế giới. Trong hoạt động đối ngoại chú ý vấn đề tập hợp lực lượng quốc tế, tạo thêm thế và lực. Mặt khác thành tựu đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam, thúc đẩy thế giới tăng cường hợp tác với Việt Nam. Ngoài ra, tiếp nhận sự giúp đỡ của quốc tế phải đi liền với làm nghĩa vụ quốc tế.

- Kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại.

Cách mạng tháng Mười Nga mở thời ra đại mới- thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh là người Việt Nam yêu nước đầu tiên đặt cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Sau chiến tranh thế giới II, trên thế giới xuất hiện điều kiện thuận lợi cho các dân tộc phát huy sức mạnh của mình, kết hợp với sự giúp đỡ quốc tế. Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Việt Nam đã kết hợp được sức mạnh dân tộc và thời đại. Đó chính là một trong các nhân tố thắng lợi của đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc. Sức mạnh dân tộc là tinh thần, truyền thống, lịch sử, quân sự, kinh tế, văn hóa, trước hết là sức mạnh đoàn kết toàn dân. Sức mạnh thời đại là các xu thế như hoà bình, hợp tác, phát triển. Cách mạng khoa KHCN, … toàn cầu hoá. Phải kết hợp được sức mạnh dân tộc và thời đại trong sự nghiệp đổi mới.

- Xây dựng, phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác lâu dài với các nước láng giềng; quan tâm xử lý đúng đắn quan hệ với các nước lớn.

Việt Nam có câu "bán anh em xa, mua láng giềng gần". Láng giềng gần liên quan chặt chẽ đến an ninh và phát triển của Việt Nam nên quan hệ với láng giềng luôn là hướng ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách của chúng ta là láng giềng thân thiện bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Những bất đồng được giải quyết bằng thương lượng. Trong thời đại toàn cầu hoá, Việt Nam chú trọng đẩy mạnh liên kết kinh tế quốc tế, liên kết khu vực, duy trì phát triển quan hệ láng giềng ổn định. Việt Nam đẩy mạnh hợp tác trong ASEAN, với các tam, tứ giác phát triển trong khu vưc….

Các nước lớn có vai trò, vị trí quan trọng trong quan hệ quốc tế. Cho nên quan hệ với nước lớn cũng là ưu đối ngoại của Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam đã chú trọng phát triển quan hệ với Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Nga, Ấn Độ, với Liên minh châu Âu…

- Coi trọng phối hợp chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá ở các cấp, ở trung ương và địa phương.

Có kết hợp mới tạo sức mạnh tổng hợp. Đó là quy luật của đấu tranh dựng nước và giữ nước của Việt Nam. Bên cạnh kết hợp giữa các ngành, còn phải kết hợp các binh chủng ngoại giao như: ngoại giao Nhà nước, ngoại giao Đảng, ngoại giao nhân dân.

- Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, kim chỉ nam cho hoạt động đối ngoại của Việt Nam.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là hệ thống những nguyên lý, quan điểm, quan niệm về các vấn đề thế giới, thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược, chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này còn thể hiện trong hoạt động đối ngoại thực tiễn của Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Nội dung cơ bản tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh: các quyền dân tộc cơ bản; độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; độc lập tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại; hòa bình, chống chiến tranh; hữu nghị, hợp tác với láng giềng; coi trong quan hệ với các nước lớn; ngoại giao là một mặt trận. Ngoài tư tưởng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn để lại phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Đó là phương pháp: dự báo và nắm bắt thời cơ; ngoại giao tâm công; dĩ bất biến, ứng vạn biến. Phong cách ngoại giao: tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo; phong cách ứng xử linh hoạt; phong cách nói giản dị, dễ cảm hoá và thuyết phục; phong cách viết ngắn gọn, hàm súc, dễ hiểu. Nghệ thuật: vận dụng nhuần nhuyễn năm cái biết ( Biết mình; biết người; biết thời, biết thế; biết dừng và biết biến); nhân nhượng có nguyên tắc; lợi dụng mâu thuẫn đối phương.

3. Vài nét lịch sử Bộ Ngoại giao

Giai đoạn 1945-1946: Bộ Ngoại giao thành lập ngày 28/8/1945 (Ngày công bố danh sách Chúnh phủ lâm thời). Do tầm quan trọng của công tác ngoại giao, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh kiêm luôn Bộ trưởng Ngoại giao. Ngày 02/3/1946 khi thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Bộ Ngoại giao do Nguyễn Tường Tam, người của Việt cách nắm giữ. Nguyễn Tường Tam được cử làm Trưởng Đoàn, song ngày 30/5/1946, một ngày trước khi đoàn Đàm phàn lên đường sang Paris dự Hội nghị Phôngtenơblô, ông ta đã bỏ trốn sang Trung Quốc theo quân Tưởng. Ngày 03/11/1946 Quốc Hội phê chuẩn lại Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại một lần nữa kiêm chức Bộ trưỏng Ngoại giao cho đến tháng 3/1947. Từ tháng 3/1946 đến tháng 8/1954, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Hoàng Minh Giám.

Ngày 7/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 47 về cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao. Theo sắc lệnh này , Bộ ngoại giao chia làm Nội bộ và Ngoại bộ. Ngoại bộ gồm Sứ bộ và Lãnh sự bộ. Nôi bộ gồm Văn phòng, vói ba phòng: Bí thư-Cơ mật; Thông tin và Phát ngôn; Đổng lý sự vụ (Công văn, nhân viên vật liệu và kế toán, Nghi lễ, khánh tiết, Tuyên truyền, Báo chí, Thông dịch, luật pháp, hành chính và kiều dân, Chính trị và Kinh tế).

Khi Chủ Tich Hồ Chí Minh kiêm Bộ trưởng Ngoại giao, bộ máy gọn nhẹ đặt ngay trong Phủ Chủ tịch sau đó Trụ sở Bộ chuyển đến 43 Lý Thái Tổ, rồi năm 1946 chuyển đến 23 phố Hàng Tre ( Nguyên là Trụ sở Tổng thanh tra Công chính Pháp). Biên chế lúc đầu khoảng 20 cán bộ, phần lớn là trí thức cách mạng, biết ngoại ngữ như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc , tiếng Nhật. Do bộ máy nhỏ nên trong giai đoạn này các hoạt động ngoại giao có sự tham gia của hầu hết nhân vật cao cấp biết ngoại ngữ của cơ quan Đảng và Chính phủ hay các nhân sĩ tiêu biểu lúc bấy giờ.

Tổng thư ký Bộ ngoại giao (tương đương thứ trưởng) điều hành hoạt động của Văn phòng Bộ, kiêm công tác tuyên truyền báo chí.

Ban Tham nghị hay Ban tham biện là Bộ phận giúp việc quan trọng nhất phụ trách quan hệ với các đối tượng chủ yếu (Mỹ, Pháp, Tưởng và Nhật).

Sau Hội nghị Phôngtennơblô tháng 9/1946, Chính phủ lập Cơ quan đại diện không chính thức tại Paris gồm 3 người do ông Hoàng Minh Giám đứng đầu. Cuối 1947 thì rút. Tháng 8/1946 Chính phủ cử ông Nguyễn Đức Quỳ đến BăngKok lập cơ quan đại diện, được hưởng quy chế ngoại giao và tháng 6/1951 Chính phủ Thái Lan công nhận chính phủ Bảo Đại, ta rút cơ quan .

Giai đoạn 1947-1954: Sau ngày Toàn quốc kháng chiến bùng nổ, Bộ Ngoại giao chuyển lên an toàn khu (ATK) ỏ Việt Bắc. Lục đầu đóng tại nhà dân xã Kim Quan Thượng, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, sau đó chuyển về xã Minh Khai (nay là xã Minh Thanh), huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Lúc này Bộ có 7 cán bộ. Trong chiến dịch thu đông 1950-1951, do địch đánh phá mạnh ATK nên Bộ chuyển về xã Đông Lý, huyện Yên Bình, Yên Bái, sau lại chuyển về xã Yên Nguyên, huyện Chiêm Hoá, Tuyên Quang. Từ đầu năm 1951 chuyển về Đồng Chùa, xóm Dõn, xã Minh Khai, Sơn Dương. Bộ đóng tại khu nhà riêng. Nơi đây đã đươc xây dưng lại thành Khu di tích Bộ Ngoại giao, khánh thành ngày 25/8/2000. Từ tháng 7/1954, Bộ chuyến về huyện Đại Từ (Thái Nguyên) và tháng 10/1954, chuyển về Hà Nội. Bộ đã tổ chưc cuộc găp của Bộ trưởng Hoàng Minh Giám với lãnh sự Anh ở cầu Đuồng (5/1947), cuộc gặp của Bác Hồ với Paul Mus, đại diện cao Uỷ Pháp ở Thái Nguyên (12/5/1947).

Sau chiến dịch biên giới, mở thông đường sang Trung Quốc, Liên Xô, công tác ngoại giao phảt triển. Lúc này, biên chế của Bộ khoảng 50 người. Và có thêm nhiều hoạt động thu thập tin tức phụ vụ đối ngoại hướng dẫn tuyên truyền đối ngoại cho cơ quan ở nuóc ngoài, dự thảo công hàm trao đổi, biên soạn tài liệu giới thiệu các nước có quan hệ ngoại giao cho các địa phương, cử đoàn ra nước ngoài dự hội nghị. Bộ đã tổ chức vài lớp bồi dưỡng chính trị, ngoại ngữ và đầu 1950 lần đầu tiên Bộ cử cán bộ đi đào tạo ở Trung Quốc.

Về tổ chức Đảng, trước 1950 sinh hoạt đảng chung với Văn phòng Chủ tịch nước. Chi bộ đầu tiên thành lập năm 1950 có 20 đảng viên.

Năm 1950 lập Đoàn đại biểu VNDCCH ở Trung Quôc, sau đổi thành Đại sứ quán. Năm 1952 lập Đại sứ quán ở Liên Xô. Cuối năm 1953 đầu năm 1954 lập Biện sự sứ Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu Trung Quốc.

Giai đoạn 1954-1964: sau hoà bình lập lại, Bộ Ngoại giao mới thực sự tiến hành công tác tổ chức, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ. Nhiệm vụ của Bộ mở rộng, nhằm tranh thủ điều kiện quốc tế thận lợi cho việc khôi phục kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà, góp phần năng cao vị thế của Việt nam. Từ năm 1954 đến 1964, chúng ta thiết lập quan hệ với 12 nước ở châu Á, châu Phi và lập thêm 12 đại sứ quán, 5 Tổng lãnh sự quán, 2 cơ quan đại diện chính phủ. Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam mở Văn phòng thông tin-liên lạc ở nhiều nước. Chức năng, nhiệm vụ cơ cấu tổ chức được chính quy hoá bằng Nghị định 157/CP ngày 9/10/1961. Nghị định khảng định Bộ Ngoại giao phụ trách công tác ngoại giao của nhà nước, quản lý thống nhất công tác đối ngoại, nghiên cứ trình chính phủ chủ trương chính sách đối ngoại, quản lý cơ quan đại diện ở nước ngoài, bảo vệ quyền lợi Việt kiều, quản lý phóng viên báo chí nước ngoài..Biên chế từ 100 người; năm 1954 lên 603 người; năm 1957 hình thành các đơn vị mới: Vụ Tổng hợp, các vụ khu vực (Liên Xô-Đông Âu,Tây Âu, Châu Mỹ, Tây Á-Phi châu, Châu Á I, châu Á II, Vụ Miền Nam. Các vụ nghiệp vụ như Lễ tân. Lãnh sự , các vụ quản lý nội bộ. Từ tháng 9/1954 đến tháng 4/1961, Phó Thủ tướng, rồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao. Từ tháng 4/1961 đến tháng 7/1963 Bộ trưởng Ngoại giao là ông Ung Văn Khiêm và từ tháng 7/1963 đến tháng 5/1965 Bộ trưởng Ngoại giao là ông Xuân Thuỷ.

Giai đoạn 1965-1973: Ngoại giao thực sự đã trở thành một mặt trận có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiệm vụ trọng tâm của ngoại giao trong thời gian này là tạo chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt, trước hết phải tăng cường hai khâu quan trọng là nâng cao hơn nữa lập trường chính trị tư tưởng và tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước một cách chủ động và sáng tạo.

Về tổ chức, Bộ đã lập một số cơ cấu mới, như Tiểu ban Việt Nam, Vụ Nghiên cứu và Tư liệu, Vụ Bắc Mỹ; lập mới và nâng cấp một số cơ quan đại diện ở Cộng hoà Ả Rập Thống nhất, ở Công gô (B), ở Tanzania, Ghana và bổ sung một số cán bộ mới do trường Ngoại giao đào tạo.

Từ tháng 5/1965 đến tháng 1/1980, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Nguyễn Duy Trinh. Từ tháng 6/1969, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam là bà Nguyễn Thị Bình.

Công tác đào tạo cán bộ ngoại giao giai đoạn này rất được Lãnh đạo Bộ quan tâm. Từ năm 1965 đến 1975, Trường Đại học ngoại giao đã đào tạo được 3 khoá dài hạn hệ 5 năm, có 153 người tốt nghiệp và 2 khoá đào tạo ngắn hạn hệ 3 năm, có 83 người tốt nghiệp. Bộ còn chú trọng mở các lớp bồi dưỡng tại chức, bổ túc, nâng cao trình độ cho cán bộ đương chức... để phục vụ nhu cầu công tác ngày càng cao và phức tạp hơn của Bộ. Đặc biệt trong giai đoạn này, Bộ đã cử thêm nhiều cán bộ ra nước ngoài học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ chuyên môn.

Tính đến tháng 6/1970, bộ máy Bộ Ngoại giao đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, đảm bảo hoàn thành những nhiệm vụ chính. Khoảng thời gian này, Bộ Ngoại giao VNDCCH đã có 20 đơn vị trong nước, bao gồm đủ các vụ khu vực và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết và 30 đơn vị ngoài nước gồm các cơ quan đại diện, như Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán và các cơ quan đại diện khác. Tổng số cán bộ, nhân viên trong ngành khoảng 1200 người, trong đó cán bộ sơ cấp (cán sự 3 – 5) chiếm 53% có trình độ tốt nghiệp đại học.

Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam có 12 đơn vị trong nước, trong đó có 6 vụ làm công tác đối ngoại và 32 đơn vị ở ngoài nước gồm 25 Đại sứ quán, 5 Phòng thông tin, 1 Đoàn đại diện ở Paris và 1 đoàn B với tổng số cán bộ, nhân viên tính đến đầu năm 1973 là 519 người.

Giai đoạn 1973- 1975: Sau ngày Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam được ký kết, công tác xây dựng ngành Ngoại giao đã chuyển dần từ thời chiến sang thời bình. Bộ máy hai Bộ Ngoại giao hai miền chuẩn bị cho quá trình hợp nhất dưới sự chỉ đạo chung của Bộ Chính trị.

Trong giai đoạn này, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và kiện toàn tổ chức bộ máy được triển khai theo hướng tinh gọn, hợp lý và có hiệu quả. Bộ đã xây dựng được một số tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ công tác trong ngành Ngoại giao; đề ra những nội dung đổi mới trong chức năng, nhiệm vụ của người đứng đầu cơ quan đại diện ta ở nước ngoài.

Về tổ chức và bộ máy trong nước, đến tháng 6/1975, Bộ Ngoại giao VNDCCH có 1731 cán bộ, nhân viên, 28 đơn vị trong nước và 30 đơn vị ngoài nước. Bộ Ngoại giao CHMNVN có 632 cán bộ, nhân viên với 12 đơn vị trong nước và 28 cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài.

Từ năm 1954 đến năm 1975, ngành đã tiến hành 11 Hội nghị ngoại giao. Đây là những hoạt động định kỳ hết sức quan trọng trong công tác xây dựng ngành về mặt tổ chức bộ máy cũng như công tác nghiệp vụ chuyên môn, đóng góp một phần rất quan trọng vào thành tích chung của Bộ Ngoại giao.

Giai đoạn 1976 – 1986: Ngày 25/6/1976, Quốc hội tuyên bố Việt Nam thống nhất về mặt Nhà nước, lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đó là cơ sở pháp lý cho việc hợp nhất 2 Bộ Ngoại giao hai miền thành Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ năm 1986 đến năm 1980, nước ta đã mở thêm một số cơ quan đại diện, quan trọng nhất là cơ quan đại diện tại Liên hợp quốc, Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức, Canađa, Thái Lan, Malaixia, Philippin... và rút bớt một số cơ quan đại diện ở châu Phi. Tính đến năm 1986, nước ta có 51 cơ quan đại diện ở nước ngoài.

Ở trong nước, Bộ Ngoại giao được thành lập một số đơn vị mới: Vụ Bắc Mỹ, Vụ Châu Á4, Trung tâm báo chí. Cơ quan Ngoại vụ ở thành phố Hồ Chí Minh và một số nơi khác cũng được củng cố và tăng cường.

Đầu năm 1976, ta tổ chức Hội nghị ngoại giao lần thứ XII và tháng Năm năm sau, tổ chức Hội nghị ngoại giao lần thứ XIII. Đây là những Hội nghị ngoại giao đặc biệt quan trọng đối với công tác xây dựng ngành, nhất là Hội nghị XIII đã nêu rõ về quy hoạch và tiêu chuẩn cán bộ, đề ra chủ trương và biện pháp sắp xếp lực lượng và bố trí cán bộ, cải tiến tổ chức, xây dựng các chính sách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ theo những nội dung mới mang tính lý luận và thực tiễn cao. Sau Hội nghị này, để tham mưu cho Lãnh đạo Bộ trong công tác xây dựng ngành, Bộ thành lập Vụ Tổng hợp nội bộ.

Xác định bồi dưỡng cán bộ cấp vụ, đào tạo lớp cán bộ kế thừa là công tác cấp bách nhất, giữa năm 1978, Lãnh đạo Bộ mở lớp tập sự cấp vụ đầu tiên. Sau một thời gian nghiên cứu, Bộ ban hành Quy chế tập sự cấp Vụ và mở các lớp tiếp theo.

Rút kinh nghiệm việc tập sự cấp Vụ, năm 1983, Bộ ban hành Quy chế tập sự cấp Bộ và đầu năm 1984, lớp tập sự cấp Bộ đầu tiên gồm 6 Vụ trưởng được chọn thực tập làm nhiệm vụ Thứ trưởng với chức danh Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, nằm trong thành phần Lãnh đạo Bộ.

Song song với những việc trên, các lớp bồi dưỡng tại chức về các lĩnh vực lý luận Mác-Lênin, kinh tế, luật pháp quốc tế, quan hệ quốc tế, ngoại ngữ... cũng được mở. Bên cạnh đó, từ năm 1978, Bộ triển khai kế hoạch xây dựng đơn vị cơ sở trong nước, gồm 30 đơn vị, là các vụ khu vực, các vụ nghiệp vụ chuyên môn, các đơn vị hậu cần. Đơn vị cơ sở ngoài nước cũng được chú trọng xây dựng với những yêu cầu phù hợp với hoàn cảnh hoạt động có tính độc lập tương đối cao, nhân sự từ nhiều nguồn về và thường xuyên thay đổi.

Từ tháng 1/1980 đến năm 1991, Bộ trưởng Ngoại giao là ông Nguyễn Cơ Thạch. Lãnh đạo Bộ rất coi trọng công tác cải tiến phương pháp làm việc, ưu tiên nghiên cứu, đánh giá tình hình, xem xét các vấn đề chiến lược, bố trí thời gian nghiên cứu, tổng kết, biên soạn tài liệu, chỉ đạo trực tiếp công tác xây dựng ngành.

Đến năm 1986, công tác xây dựng ngành đã đạt được những thành tựu có bản: Bộ máy trong và ngoài nước được sắp xếp lại tương đối hợp lý và ổn định. Trước năm 1986, cán bộ, nhân viên của Bộ khoảng 3000 người, đến năm 1986, rút xuống còn dưới 2000 người. Năm 1987, Bộ Ngoại giao tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện công tác xây dựng ngành, khẳng định cuộc vận động xây dựng ngành 10 năm qua đã tạo được những chuyển biến cơ bản và đưa lại những kết quả lớn, thúc đẩy mạnh mẽ những hoạt động của ngành.

Công tác đào tạo luôn được Lãnh đạo Bộ chú trọng và đặt lên hàng đầu trong Phần xây dựng Ngành, tính đến tháng 9 năm 2012, trong Bộ có 67 tiến sĩ, 535 thạc sĩ và 32 người có trình độ sau đại học.

Bộ máy tổ chức trong và ngoài nước được kiện toàn theo hướng tinh giản biên chế, chính quy hiện đại, gọn nhẹ, hiệu quả. Theo phương châm đó, những đơn vị có lĩnh vực hoạt động gần giống nhau được sáp nhập làm một, như Vụ Các tổ chức quốc tế và Vụ Các vấn đề chung hợp nhất thành Vụ Các tổ chức quốc tế; Vụ Bắc Mỹ hợp nhất với Vụ Cuba - Mỹ Latinh thành Vụ Châu Mỹ; Vụ Tổng hợp xây dựng ngành hợp nhất với Vụ Cán bộ thành Vụ Tổ chức – Cán bộ. Bộ giải thể Vụ Đánh giá thưởng phạt và chuyển nhiệm vụ này cho Văn phòng Bộ đảm nhiệm. Đặc biệt tháng 8/1992, Viện Quan hệ quốc tế được nâng cấp thành Học viện Quan hệ quốc tế, nằm trong hệ thống các học viện quốc gia, trực thuộc Bộ Ngoại giao với nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu khoa học về quan hệ quốc tế và đào tạo cán bộ ngoại giao có trình độ đại học, sau đại học và trên đại học. Đến năm 1992, Học viện được giao thêm nhiệm vụ quản lý công tác nghiên cứu khoa học của Bộ.

Một mốc quan trọng đánh dấu công tác xây dựng ngành trong thời gian này là ngày 10/11/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 82-CP về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy Bộ Ngoại giao, thay thế Nghị định 157-CP, ban hành ngày 9/10/1961 không còn phù hợp nữa. Theo quy định của Nghị định này, Bộ máy của Bộ Ngoại giao ở trong nước gồm có 35 đơn vị. Ở ngoài nước Bộ đã rút một số cơ quan đại diện và lập một số cơ quan mới, nâng tổng số cơ quan ở ngoài nước lên 64 đơn vị vào năm 2000. Tiếp đó ngày 10/3/2003, Chính phủ đã ra Nghị định 21 thay thế cho Nghị định 82, bổ sung về nhiệm vụ , quyền hạn của Bộ Ngoại giao. Theo nghị định mới Bộ ngoại giao có 28 đơn vị ở trong nước. Ngày 04/02/2008 Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2008/NĐ-CP, Bộ Ngoại giao có 29 đơn vị ở trong nước.

Để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và từng bước tiến lên chính quy hoá, hiện đại hoá và tiêu chuẩn hoá cán bộ ngành ngoại giao, đồng thời phù hợp với tập quán quốc tế, ngày 12/6/1995, Chủ tịch nước ký Lệnh ban hành Pháp lệnh về hàm cấp ngoại giao. Triển khai thực hiện Pháp lệnh này, đợt đầu tiên, 388 công chức ngoại giao đã được phong hàm từ Tuỳ viên đến Công sứ. Ngày 25/8/2000, 10 cán bộ ngoại giao cao cấp được Nhà nước phong hàm Đại sứ CHXHCN Việt Nam. Năm 2010, 63 cán bộ Ngành Ngoại giao được Nhà nước phong hàm Đại sứ. Năm 2012, đợt phong hàm Đại sứ lần 3 của Nhà nước CHXHCNVN cho 38 cán bộ của Bộ.

Từ tháng 8 năm 1991 đến tháng 2 năm 2000, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Nguyễn Mạnh Cầm. Từ tháng 3 năm 2000 đến tháng 6 năm 2006, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Nguyễn Dy Niên. Từ 28/6/2006 – 7/2011, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao là ông Phạm Gia Khiêm. Từ tháng 8/2011, ông Phạm Bình Minh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Ngoại giao.

Công tác thi đua khen thưởng cũng là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng ngành. Từ ngày thành lập đến nay, Bộ Ngoại giao đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập ngành và năm 2010, nhân dịp kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Ngành Bộ ta đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân Chương Hồ Chí Minh.

Nhằm hỗ trợ đắc lực và hiệu quả cho công tác xây dựng ngành, công tác Đảng và đoàn thể cũng được chú trọng đúng mức. Tính đến năm 2000, Đảng bộ Bộ Ngoại giao có 5 Đảng bộ bộ phận và 32 Chi bộ trực thuộc. Ngày 14/11/1992, Ban Cán sự Đảng Bộ Ngoại giao được thành lập. Ban Cán sự Đảng đã cùng với Lãnh đạo Bộ và Đảng uỷ Bộ thường xuyên quan tâm đến nhiệm vụ giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường xây dựng Đảng bộ về tổ chức, nâng cao chất lượng đảng viên, chất lượng sinh hoạt Chi bộ và không ngừng đẩy mạnh công tác phát triển Đảng.

Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ và Lãnh đạo Bộ, các tổ chức đoàn thể như Công đoàn, Đoàn thanh nỉên, Phụ nữ... cùng lớn mạnh, phát huy được vai trò và có những đóng góp vào việc thực hiện những nhiệm vụ chung của Ngành.

Lịch sử gần 69 năm xây dựng ngành Ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ những bước phát triển và trưởng thành vượt bậc về tổ chức xây dựng bộ máy, đào tạo đội ngũ cán bộ về mọi mặt nhằm đảm bảo thực hiện thắng lợi chức năng, nhiệm vụ của ngành ngoại giao qua các giai đoạn cách mạng, góp phần rất quan trọng cùng với các ngành khác và quân dân cả nước lập nên những chiến công hiển hách "chấn động địa cầu” ./.

Trích dẫn từ website Bộ Ngoại giao
(Thực hiện: Phòng Hợp tác Quốc tế)

Lượt người xem:  Views:   44894
Chia sẻ:
Share:
Tin khác
 
 
Manage PermissionsManage Permissions
|
Version HistoryVersion History

Tiêu đề

Hình ảnh

Hình ảnh mô tả

Tóm tắt

Nội dung

Link thay thế nội dung

Ngày xuất bản

Tin nổi bật (Click)

Tác giả

Phân loại

Loại bài viết

Số Trang

Số Ảnh

Số tiền

Tin liên quan

Audio

Từ khóa

Trạng thái

Lịch sử

Số lượt người đọc

Tin nổi bật

Approval Status

Attachments

Content Type: Tin Tức Mở Rộng
Version:
Created at by
Last modified at by
Tin Tức